Xin chào anh chị và các bạn,
Khi nghiên cứu và đánh giá về 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter, chi phí gia nhập ngành thường được xem xét khi đánh giá mức độ gia nhập ngành của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Bên cạnh đó, khi khởi nghiệp hoặc muốn đầu tư vào lĩnh vực nào đó, thì chúng ta hầu như chỉ quan tâm đến chi phí gia nhập ngành (những chi phí bắt buộc phải có để có thể đầu tư vào 1 ngành cụ thể) mà hiếm khi quan tâm đến chi phí rời bỏ ngành.
Gia nhập đã khó, rút khỏi ngành còn khó hơn
Đây cũng là điều dễ hiểu, khi mà một doanh nghiệp đang hồ hởi kinh doanh trong 1 ngành nào đó thì họ hầu như không bao giờ cho rằng mình sẽ thất bại, và họ luôn có tâm lý: khi thất bại cùng lắm họ không làm nữa. Nhưng hầu như chúng ta quên mất có 1 loại chi phí không hề nhỏ mà doanh nghiệp phải chịu khi không tiếp tục kinh doanh nữa. Đó là chi phí để..rời khỏi ngành.
Những chi phí rời khỏi ngành thường bao gồm các nhóm sau:
1. Nhóm chi phí dành cho những hợp đồng còn dở dang.
Đối với những ngành “thu trước, làm sau” như giáo dục, nông nghiệp… thì khi doanh nghiệp đã ký hợp đồng với khách hàng (sinh viên, nông dân…) thì khi muốn rời khỏi ngành phải tiến hành thực hiện hết những hợp đồng còn dang dở này.
Ví dụ, một trường đại học khi tuyển sinh đại học 1 chương trình nào đó. 1 chương trình kéo dài 4 năm. Vì 1 lý do gì đó vào năm thứ 2, trường đại học này bị cấm tuyển sinh ngành đang đào tạo hoặc bị rút giấy phép, thì trường đại học đó vẫn phải làm nghĩa vụ đưa hết tất cả những sinh viên đã đăng ký học đến hết những năm còn lại. Chi phí để duy trì, tổ chức lớp hoặc chuyển sinh viên cho trường khác được xem là chi phí rời bỏ ngành.
2. Nhóm chi phí hoàn tất các nghĩa vụ pháp lý
Công ty là một pháp nhân, muốn khai tử 1 công ty, doanh nghiệp phải thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ về thuế, những chi phí còn tồn đọng, chi phí dành cho việc…. xóa bỏ công ty …
3. Nhóm chi phí hoàn tất nghĩa vụ với người lao động:
Nhóm chi phí này sẽ phụ thuộc vào thỏa ước lao động tập thể hoặc hợp đồng lao động. Luật Lao động Việt Nam quy định khi doanh nghiệp thu hẹp sản xuất kinh doanh, có thể cắt giảm lao động thông qua đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Một số doanh nghiệp có những cách hành xử rất đẹp như bồi thường n tháng lương khi cho 1 nhân viên nào đó nghỉ việc. Và chi phí này cũng được xem là chi phí rời bỏ ngành.
4. Chi phí xử lý kiện cáo của khách hàng và các bên hữu quan nếu việc rút khỏi ngành ảnh hưởng đến họ
Khi 1 công ty rút ra khỏi ngành, rất hiếm nhưng không phải không gặp đó là rủi ro khi các nhà cung cấp kiện hoặc người tiêu dùng kiện (trong trường hợp bảo hành còn trong thời hạn nhưng công ty đã nghỉ), thì chi phí để dàn xếp những vụ kiện này là rất lớn.
Nói tóm lại, chi phí rời bỏ ngành không hề ít nhưng lại rất được ít quan tâm. Tôi cho rằng đối với những tổ chức như tổ chức đào tạo có những chương trình đào tạo dài ngày (đại học, cao học…), các tổ chức có những hợp đồng bao tiêu với nông dân, hãy xem chi phí này là một chi phí được tính toán kỹ lưỡng và đưa vào kế hoạch quản trị rủi ro. Chỉ khi có những hoạch định tốt những phương án và tính toán đúng và đủ chi phí dành cho các phương án khi rút khỏi ngành thì doanh nghiệp đó mới có thể đương đầu với tất cả các tình huống xấu nhất.
Chúc các bạn thành công.
Dũng Nguyễn | Quản trị Kinh doanh | QuantriKinhdoanh.com.vn
Nguồn sưu tầm từ: quantrikinhdoanh.com.vn
Bài viết: Chi phí rời bỏ ngành – Chi phí quan trọng nhưng ít được quan tâm (https://www.sep.vn/chi-phi-roi-bo-nganh-chi-phi-quan-trong-nhung-it-duoc-quan.html) được biên tập bởi công sức của BTV Sếp (https://www.sep.vn). Vui lòng liên kết tới web của chúng tôi khi tái sử dụng thông tin. Chân thành cảm ơn.